2014 – Xu thế nào cho cổ phiếu Ngân hàng
Nguồn: TBKTSG
Mới đây, Ủy ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN) đã làm việc với Ngân hàng nhà nước (NHNN) để có biện pháp phối hợp trong việc thúc đẩy các ngân hàng thương mại cổ phần đại chúng lên niêm yết. Có thể thấy, đây tiếp tục là một động thái chính sách mới trong hàng loạt các chính sách mà các cơ quan quản lý đã thực hiện trong năm qua nhằm cải thiện hoạt động của hệ thống tín dụng, vốn được xem như điểm nghẽn làm kìm hãm tăng trưởng của cả nền kinh tế.
Mới đây, Ủy ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN) đã làm việc với Ngân hàng nhà nước (NHNN) để có biện pháp phối hợp trong việc thúc đẩy các ngân hàng thương mại cổ phần đại chúng lên niêm yết. Có thể thấy, đây tiếp tục là một động thái chính sách mới trong hàng loạt các chính sách mà các cơ quan quản lý đã thực hiện trong năm qua nhằm cải thiện hoạt động của hệ thống tín dụng, vốn được xem như điểm nghẽn làm kìm hãm tăng trưởng của cả nền kinh tế.
Liệu đây có phải là một động lực để
giúp cho các cổ phiếu ngân hàng có một đợt sóng mới ngay trong năm 2014, hay
những biện pháp dài hạn này sẽ còn cần thời gian để phát huy tác dụng? Hãy thử
xác định vài yếu tố tác động để trả lời câu hỏi này.
Diễn
biến giá và khẩu vị đầu tư
Nhìn
lại lịch sử, trong quá trình bùng nổ của Thị trường chứng khoán vào năm 2007,
không khó để nhận thấy vai trò dẫn dắt của cổ phiếu ngân hàng. Tuy nhiên, trong
khoảng 03 năm gần đây, diễn biến giá cổ phiếu ngân hàng đã không còn đóng vai
trò dẫn dắt. Thậm chí, trong năm 2013, diễn biến nhóm cổ phiếu này còn “hụt
hơi” so với nhiều nhóm cổ phiếu niêm yết khác.
Diễn biến giá cổ phiếu một
số ngân hàng năm 2013
Đương
nhiên, những thông tin tiêu cực như nợ xấu, rủi ro sở hữu chéo, vi phạm pháp
luật trong hoạt động ngân hàng … là những nguyên nhân trực tiếp tác động đến
diễn biến giá của cổ phiếu ngân hàng. Điều đáng bàn ở đây là trong những giai
đoạn hồi phục, cổ phiếu ngân hàng lại có diễn biến giá kém tích cực so với mặt
bằng chung. Sẽ khó có thể xác định được đâu là nguyên nhân chính nhưng rất có
thể thực tế này xuất phát từ những yếu tố sau:
- Giai đoạn 2007-2010, các ngân hàng phải chạy đua tăng vốn
để đảm bảo điều kiện vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ VNĐ và kéo theo những cơn
sốt giá cổ phiếu. Sau giai đoạn này, nhìn chung nhu cầu tăng vốn của các ngân
hàng không còn nhiều.
- Quy mô của mỗi ngân hàng đã được mở rộng nên lượng cổ
phiếu có thể giao dịch thường xuyên trên thị trường (floating shares) cũng lớn
hơn so với trước. Do đó việc diễn biến giá đi theo một chiều hướng là rất khó
bởi những nhu cầu khác nhau của mỗi nhóm nhà đầu tư.
- Việc diễn biến giá của cổ phiếu ngân hàng có biên độ dao
động hẹp cũng dần khiến cho các nhà đầu tư ngắn hạn, vốn chiếm đa số trên thị
trường Việt Nam hiện nay, giảm bớt mức độ quan tâm.
Nếu các yếu tố trên thực sự là nguyên nhân làm giảm bớt độ
hấp dẫn cho cổ phiếu ngân hàng thì có thể thấy chúng sẽ chưa thay đổi trong năm
2014, đặc biệt là kết quả kinh doanh, dù năm tới sẽ có nhiều chính sách mới đi
vào thực tiễn.
Thông tư 02 dự kiến sẽ áp
dụng vào tháng 6/2014:
Có thể xác định những tác động chính đối với hiệu quả hoạt
động của Tổ chức tín dụng (TCTD) như sau:
- Nợ xấu sẽ phán ánh đúng hơn
nhưng theo chiều hướng tăng. Các khoản tín dụng của một khách hàng vay vốn tại
nhiều TCTD sẽ được phân loại theo kết quả phân loại nhóm nợ ở mức thấp nhất để
thống nhất các kết quả đánh giá khác nhau giữa các TCTD đối với cùng 1 khách
hàng. Hiện tại thì đa số các khách hàng đều vay vốn ở các TCTD khác nhau và
chắc chắn quy định này sẽ khiến tỷ lệ nợ ở các nhóm thấp tăng lên đồng nghĩa
với việc tỷ lệ trích lập dự phòng rui ro tín dụng tăng lên.
- Đối tượng phải trích lập dự
phòng mở rộng, tỷ lệ trích lập dự phòng cao hơn. Các loại Tài sản có phải trích
lập dự phòng được mở rộng hơn (đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, thẻ tín dụng …) Bên cạnh đó, tỷ lệ khấu trừ tối đa đối với
tài sản đảm bảo cũng được điều chỉnh theo hướng thận trọng hơn. Như vậy, điều này cũng khiến cho tỷ lệ trích
lập dự phòng chung tăng lên.
Rõ ràng là khi áp dụng Thông tư 02, tỷ lệ nợ xấu, các khoản
dự phòng rủi ro tăng sẽ tăng lên sẽ ảnh hưởng tới tới năng lực hoạt động của các
TCTD trong tương lai.
Nới “room” cho nhà đầu tư
nước ngoài
Hiện nay các cơ quan quản lý đã có dự thảo Nghị định mới thay
thế Nghị định số 69/2007/NĐ-CP ngày
20 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của
ngân hàng thương mại Việt Nam. Tuy nhiên, theo những nội dung dự thảo được công
bố thì giới hạn sở hữu chung của nhà ĐTNN không đổi ở các ngân hàng. Trong
trường hợp đặc biệt, để thực hiện cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, Thủ
tướng Chính phủ sẽ quy định tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước
ngoài và người có liên quan tại một tổ chức tín dụng cổ phần yếu kém được cơ cấu
lại vượt quá giới hạn quy định (tức là vượt quá 30%). NHNN cũng đã trình Chính
phủ Nghị định quy định về việc góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài
tại các NHTM, trong đó có thể xem xét cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đủ
điều kiện được sở hữu trên 20% vốn điều lệ của các NHTM, thay vì chỉ được sở
hữu 15% vốn điều lệ như hiện nay.
Những sửa đổi, quy định mới thể hiện trong dự thảo Nghị
định chủ yếu tập trung vào nhóm cổ đông có chất lượng nhằm hỗ trợ
các ngân hàng tiếp cận được nguồn vốn công nghệ, cách thức quản lý
mới. Nó có thể tạo thêm sự hấp dẫn cho cổ phiếu ngân hàng nhưng có lẽ chưa đủ
hấp dẫn bởi tỷ lệ sở hữu như vậy chưa đủ để một nhà đầu tư nước ngoài có được
tiếng nói trong hoạt động điều hành của ngân hàng.
Các chính sách liên quan
khác
Gần đây các cơ quan quản lý đang cân nhắc việc yêu cầu các
ngân hàng thương mại cổ phần buộc phải niêm yết. Bước đi này sẽ góp phần tăng
hiệu quả quản lý, giảm sát khi các ngân hàng sẽ phải minh bạch hơn trong thông
tin. Đây là yếu tố tích cực cho các nhà đầu tư dài hạn quan tâm đến cổ phiếu
ngân hàng. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, khi mà các thông tin về nợ xấu
của ngân hàng, thực trạng sở hữu chéo còn chưa xác định rõ thì có lẽ việc minh
bạch thông tin còn ảnh hưởng tiêu cực tới diễn biến giá cổ phiếu trong ngắn
hạn.
Một tiến trình cũng được xúc tiến trong thời gian qua là
yêu cầu các ngân hàng bán nợ xấu cho VAMC. Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn trích dự
phòng rủi ro 20%/năm trong vòng 5 năm phần nợ xấu bán sang VAMC và sau 5 năm
ngân hàng phải thực hiện mua lại khoản nợ xấu. Vì vậy, thực chất đây chỉ là quá
trình kéo dài thời gian xử lý nợ xấu nên không giúp cải thiện cho hoạt động của
từng ngân hàng.
Như vậy, qua việc đánh giá các yếu tố về mặt cơ bản như
trên, có thể thấy không có nhiều kỳ vọng vào động lực tăng giá của cổ phiếu
ngân hàng khi hoạt động của các tổ chức tín dụng còn có thể xấu hơn trong thời
gian tới.
Có lẽ, hy vọng cho nhóm cổ
phiếu ngân hàng trong năm 2014 nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung vẫn
là sự hồi phục chung của nền kinh tế. Vẫn biết thị trường chứng khoán luôn tiềm
ẩn những diễn biến bất ngờ nhưng với những đánh giá từ cả góc độ kỹ thuật (diễn
biến giá) và cơ bản (tiềm năng hoạt động) của các ngân hàng như trên, có lẽ,
không nên kỳ vọng vào những đột biến vượt trội của cổ phiếu ngân hàng so với
mặt bằng chung.

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét