Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2014

FDI và rửa tiền

Commnet: Bài hay lý giải vì sao suy thoái kinh tế, BĐS khó khăn mà VN vẫn thu hút được FDI vào BĐS 

BBC 23-1-14

'Thiên đường thuế' có tiền bẩn VN?


Một cuộc điều tra lớn trên phạm vi quốc tế thu thập được nhiều tư liệu tài chính rò rỉ cho thấy thân nhân của giới lãnh đạo Trung Quốc nắm trong tay nhiều công ty hoạt động ở các 'thiên đường thuế'.
Tài liệu mật nằm trong 2,5 triệu files mà Liên hiệp Nhà báo Điều tra Quốc tế (ICIJ) tổng hợp được hé lộ nhiều nhân vật quyền thế trong hệ thống chính trị Trung Quốc đã lập ra các công ty và tài khoản đặt tại Cook Islands hoặc British Virgin Islands là những nơi bị coi là có điều kiện trốn thuế dễ dàng.
Cáo buộc rửa tiền của các “Thái tử Đảng” Trung Quốc, đặc biệt là ở British Virgin Islands đã đặt ra câu hỏi có hay không những quốc gia có thể chế chính trị giống Bắc Kinh theo gót chân họ.
Điểm đáng chú ‎ý là trong danh sách đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) mà Bộ Kế Hoạch và Đầu tư Việt Nam công bố, British Virgin Islands, nơi bị cho là điểm rửa tiền chính của Thái tử Đảng TQ, cũng chính là nơi đã đầu tư vào Việt Nam 15 tỷ USD, tính đến cuối năm 2012.
Nếu tính thêm nơi thứ hai là Cayman Island thì tổng số tiền đầu tư có thể có khả năng bất chính vào Việt Nam lên tới 23 tỷ và nếu tính tất cả các hòn đảo nhỏ, lên tới 30 tỷ USD, tương đương 14% tổng FDI vào Việt Nam tính tới cuối 2012.
“Việc rửa tiền, hoặc trốn thuế ở các hòn đảo nhỏ là vấn đề nhiều nước đang gặp phải kể cả Mỹ”, Tiến sĩ Vũ Quang Việt, cựu chuyên viên tài chính của Liên Hợp Quốc nhận định.
Trong email gửi cho BBC, ông Tiến sĩ Việt mô tả về sự khác biệt của những cách mà ông gọi là “cách cò con và cách đại gia”.
'Hóa đơn dịch vụ'
“Để chuyển tiền (bất chính), tiền phải bỏ vào va li xách lậu qua phi trường, hải cảng. Cách chuyển tiền này hiện nay bị theo dõi chặt chẽ hơn vì nạn rửa tiền, hoặc vì tiền có thể dùng để tài trợ khủng bố.
“Từ Việt Nam, ngoài cách xách tiền bằng vali, cách chuyển được làm phổ biến là đầu tư vào bất động sản, rồi đem bán và chuyển chính thức sang nước ngoài, khi đã định cư được một người trong gia đình ở nước ngoài. Đi du học rồi cưới người bản xứ là cách định cư người ra nước ngoài.
“Cách làm này là cách làm cò con”, ông Việt nhận định.
Tiến sĩ Việt mô tả cách làm lớn của các đại gia là mở công ty ở British Virgin Island hay Caymans Islands.
“Các đại gia sẽ không cần chuyển tiền lậu ra nước ngoài, vì có thể bị bắt, mà mở công ty. Khi công ty đã được mở ở British Virgin Island hay Caymans Island, công ty của họ chỉ cần gửi hóa đơn tính dịch vụ phí một công ty ở Việt Nam.
“Đồng tiền đen (tham nhũng) ở Việt Nam theo đó sẽ được chuyển ra ngoài một cách hợp pháp.
“Các công ty này khi có đủ tiền thì lại đầu tư lại vào Việt Nam, tức là đưa tài sản ngược lại Việt Nam, hợp pháp hóa toàn bộ số tiền tham nhũng.
“Với tài sản có sẵn, họ lại thu mua các công ty nhà nước được cổ phần hóa (với giá rẻ mạt), điều đã xảy ra ở Nga và Trung Quốc”, Tiến sĩ Việt bình luận.
'Thuê thám tử'
Trong một email gửi Giáo sư Trần Hữu Dũng tại Hoa Kỳ, ông Việt được dẫn lời nói “Nếu ông Nguyễn Phú Trọng muốn chống tham nhũng thì ông ấy cần bỏ tiền thuê thám tử phương tây điều tra các tên tuổi Việt Nam đã đăng ký ở British Virgin Islands”.
Quốc hội Việt Nam vào 18/06/2012 ban hành Luật Phòng, chống rửa tiền, có hiệu lực từ ngày 01/01/2013.
Ngày 04/10/2013, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 116/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật phòng, chống rửa tiền (hiệu lực 10/10/2013) qui định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống rửa tiền.
Nghị định này nói NHNN phải phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan khác kể cả việc giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm soát nhân dân tối cao trong công tác phòng, chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố.
Hiện chưa rõ Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng Chống tham nhũng của Bộ Chính trị có vai trò gì trong hoạt động phòng chống rửa tiền.

Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

VIETNAM SHIPPING & PORT SECTOR UPDATE - JAN 2014

Báo cáo SSI:
VIETNAM SHIPPING & PORT SECTOR UPDATE - JAN 2014
 DRY BULK SHIPPING SECTOR UPDATE
The Baltic Dry Index (BDI) rose from c.1000 in early August to c. 2000 in December, doubling in relative term.  Although we think the Recent uptrend of Baltic dry index is not yet sustainable, Dry bulk shipping market seems to gradually bottom out as there is a tendency of dormant fleet growth to satisfy demand growth in 2013.
Vietnamese dry bulk shipping lines such as Vietnam Ocean Shipping JSC – Vosco (VOS:HOSE), Vitranschart JSC (VST:HOSE), Vinaship JSC (VNA:HOSE), etc…have carried minor bulk (grain, fertilizer, metal, mineral, sugar, cement, etc) with fleets of Handysize vessels. We see that the recent uptrend of dry bulk freight did not ensue across the board, nor was it the case for Handysize freight rate. On average, Baltic Handysize index is only 2-3% higher YoY. These Vietnamese dry bulk carriers operate in international routes under voyage or liner charter, where they face stiff competition from foreign carriers (overall, only ~10% of carrying volume in international routes was relegated to Vietnam flagship carriers).
In terms of fundamentals, we see the above mentioned companies are still struggling although they have improved from the restructuring of their fleets and rolled-over their debts to minimize losses. Still, in our estimates, their core businesses would suffer losses in 2014 although less severe than 2013.
During 2011-2013, VOS, VST, and VNA liquidated parts of their fleets and as a result the profit generated helped minimize losses and were slightly profitable.  Due to operating difficulties, VSO, VST and VNA had to negotiate to roll-over/extend portions of their long-term debts (and interest expenses) to alleviate financial burden. In addition, in order to help shipping firms reduce losses incurred during economic malaise, the Ministry of Finance permitted shipping firms like VOS, VST, and VNA (in which Vinalines holds more than 51%) reduce depreciation expense up to 75% for certain vessels in 2012. However, the same practice was not permitted in 2013.

2014 outlook: Break-even if BDI sustainably remains around the 2500-3000 level

According to VOS’s management, operating profit could be break-even if BDI sustainably remains around the 2500-3000 level. Otherwise, for 2014, all hopes for dry bulk shipping companies would come from extraordinary income from disposing old vessels. Talks with those companies’ management revealed that VST has no plans to sell any ships in 2014 while VOS intends to sell 01-02 ships if market conditions are favorable and VNA has no specific plans yet (as they cannot forecast the movement of freight rate).   
LIQUID SHIPPING SECTOR UPDATE
Fundamentally, we see a brighter picture for liquid shipping lines such as PVT, VIP, and VTO as they have been profitable and will likely see upside catalysts in the coming time. Thanks to support from parent companies like PVN, Petrolimex, their businesses are sheltered from economic malaise as their fleets have largely been employed to transport oil and gas for SOEs at rates which we believe is more favorable than market rate.

Petrovietnam Transportation Corporation (PVT:HOSE): 2013’s business improvement and positive outlook has been largely priced in, investors should wait for attractive entry level.

2014 stable outlook:The Company estimates that 2014 would be another encouraging year, given rather stable market (DzungQuat oil refinery) and new opportunities from thermo-electric plants like VungAng 1, Thai Binh 1. DzungQuat refinery will have a maintenance plan in 2014 of roughly two months, which will partially impact revenue of gasonline products and LPG transporation. On the other hand, FSO Kamari will end operation in September 2014, and the company expects to collect an amount of extraordinary income from liquidation although it will reduce revenue from FSO. Furthermore, additional profit (with margin of ~5%) from coal shipping for thermo-electric plants would help compensate profit reduction from FSO Kamari stoppage. We expect coal transportation might generate VND 500bn revenue in 2014.
In terms of valuation,PVT is currently trading at 2013PER of 11.4xx, EV/EBITDA of 7 x and 2013 PBR of 1 x. In comparison with peers in the shipping industry as well as listed companies under PVN, we think that the current valuation is quite fair for PVT. We see some shipping stocks in APAC that are also trading at EV/EBITDA of 7x.
Catalysts in the short term: excellent 2013 results will help sustain the current price. For 6 months’ view, 2013 dividend of 10% in stock would be decided at the AGM next year and is another upside for the stock.
We recommend HOLD for PVT at fair value of VND 12,000/share, equivalent to target EV/EBITDA of 6x and PBR of 1x.

Vietnam Petroleum Transport JSC –Vipco(VIP:HOSE): Possible extraordinary income would spurupside in the medium term, strong free cash flow given a lack of capex plan

VIP previously owned 04 berths at Dinh Vu (02 petroleum and 02 container wharfs). After selling 02 berths to Gemadept Corporation (GMD:HOSE) in 2012, VIP still has 02 petroleum berths with total length of 377m in a 15.26 ha land plot. VIP confirms that it received approval from Hai Phong’s People’s Committee for transforming those berths to container berths, and it is setting business plan for the land piece. It might seek for investors to co-develop a container port or totally transfer to other developers.
VIP has already invested VND 132bn in the land piece. Assuming that the worst case scenario occurs, the land piece will be valued at a similar price that was sold to GMD (USD 13mn), VIP will still record a VND 120bn gain in book value (if it co-develops the port) or profit in P&L (if it sells the land piece), increasing book value of VND 1,500/share.
For FY2013, we expect net profit might reach VND 151bn, resulting in EPS of VND 2,526/share and BVPS of VND 16,234/share.  Upon our recent meeting with company, it was revealed that in 2014, all of its fleet would be leased to Petrolimex under the time charter method. Therefore, VIP’s oil product transportation business would remain stable in 2014. The company does not have any specific CAPEX plans and no plans to acquire new vessels in 2014. Besides, VIP’s management does not expect rate to significantly increase in 2014.  Excluding positive extraordinary profit from land piece sale, we believe EBIT in 2014 will still expand by 45% from VND 51.5bn in 2013 to VND 75bn in 2014 thanks to:
-     Lower interest expense resulted from lower debt balance. Higher financial income resulted from high cash without large capex plan.
-      Lower admin expense in the absence of bad debt provision. It should be reminded that VIP has set aside VND 19bn for provision in 2013.
Investment Opinion:  VIP is trading at 2013 P/B and EV/EBITDA of 0.67x and 3.2x, which is highly discounted to PVT’s (P/B and EV/EBITDA of 1x and 7x). We set lower P/E target for VIP due to its lower market cap and growth potential. Given current valuation, we recommend BUY for the stock at 1Y target price of VND 13,000/share as:
-        Small-scaled but stable and low-risk core business expected in 2014.
-        High free cash flow, VIP has no CAPEX plans. Although this will limit the growth potential of the stock, better financial status will help earnings expand in 2014. Besides, given high retained earnings, VIP will pay cash or stock dividend for 2013.
-        The upside potential from the port sale would be positive catalyst, spawning high earnings and cash flow for VIP.
PORT SECTOR UPDATE
Our recent visit to port companies in Hai Phong revealed that:
-     Through put volume has increased ~7-8% YoY, and is estimated to hover around 7% in the next several years. Oversupply is not likely to develop in the near future. Lach Huyen is in the distant future and would not affect those ports in the medium term.
-     Profit from frozen container storage at all the ports are not as high as in 2012 as border trade with China has been complaisant this year.
-     All ports have growth plans, either via developing logistics business or expanding to new ports to the Dinh Vu area.
Port
DVP
VSC
DXP
Comment
2012 throughput volume
462,700 TEUs
347,000 TEUs
4.37 mn tons
Export-import goods ratio: DVP: 100%, VSC: 80%, DXP: 40%
2013 throughput volume ( P)
468,000 TEUs
350,000 TEUs
4.37 mn tons

YoY Growth
1.20%
0%
0%

2012 revenue
503
779
261

2013 revenue (P)
518
779
200

YoY Growth
9%
0%
--20%

2012 PBT
201
290
103

2013 PBT (P)
219
276
72

YoY Growth
9%
-4.6%
-30.3%
DXP benefited the most from storing frozen containers in 2012. The same cannot be said for 2013.
2012 ROA
25.3%
23.9%
32.5%

2012 ROE
37.9%
32.7%
38.0%

Design capacity
500,000
300,000
180,000

2012 Capacity utilization
85%
116%
123%

2012 PER
4.68x
3.53x
3.29x

Current 2013 PER
8.5x
8.0x
7.0x

Current  2013 PBR
2.0x
1.8x
1.5x

Target 2014 PER
8.5x
8.5x
7.5x
We target higher PER for DVP on its advantages (1) larger capacity (2) capacity not fully utilized (3) advantageous location. VSC deserves higher target PER than DXP thanks to its larger size and active management in seeking growth for VSC, potential growth thanks to logistics.
1-yr TGP
45,700
68,600
55,000
DVP's valuation is before stock dividend
Recommendation
HOLD
HOLD
HOLD

Doan Xa Port (DXP: HOSE): 1-yr TGP VND 55,000. HOLD

2013 preview: DXP’s management hints that handling volume in 2013 would be around 4.3 mil tons (~230K Teus) which is identical to previous years’ volumes. Handling rate was remained unchanged for domestic customers (from Vinalines and VOS) but was a half of that for foreign customers. However, in terms of profit, the company anticipates negative growth. Frozen container storage activity generated ~VND 80 bn in revenue in 2012, but this amount is estimated to decrease by ~50-70% in 2013 as border trade with China becamemore complaisant.  In 9M13, DXP revenue and profit before tax totaled VND 148 bn and VND 53.4 bn (down 21% and 23% YoY) given theabove mentioned reasons.
Recent updates:Upon our recent meeting with the company, we havelearned that DXP is keen on expanding its port business to the Dinh Vu area. Therefore, they are considering to purchase VIP’s 02 berths (380 meter length) in the 15ha land plot. However, DXP admits that a total investment of around USD 50 mn (USD 20 mn for the land plot and USD 30 mn for construction) will exceedDXP’s current financial capabilities. DXPis working on due diligence to submit to Vinalines.
Estimates and Investment View:  We maintainestimates for 2013 of VND 200bn in revenue and VND 54bn in NPAT. 2013EPS comes to VND 6,856/share. As handling fee is unlikelyto increase in 2014, we expect that revenue in 2014 will advance slightly by 3% Profit before tax is expected to grow at similar level to VND 58bn, resulted in EPS of VND 7,346/share.
Our 1-yr TGP for DXP comes to VND 55,000/share, anchoring on target PER of 7.5x and PBR of 1.7x. Please note that if DXP’s above mentioned development plan is not realized, we believe that high cash dividend( 50% cash dividend, resulted in yield of 11%) will be maintained in the coming years. Therefore, at current market price, we recommend investors to HOLD the stock.

Dinh Vu Port Development and Investment JSC (DVP:HOSE): 1-yr TGP VND 45,700. HOLD

2013 preview: Total handling volume is estimated to reach ~500k TEUs (equivalent to ~5 mil tons), adding ~8% YoY.2013 profit target of VND 180 bn in PBT would be exceeded. Loading and unloading fees remained almost identical YoY, while other service fees slightly increased. SITC remains the port’s primarycustomer, contributing 35% to total revenue. For 2013, our forecasts for DVP are as follows: (1) revenue would increase by 9% mainly thanks to increases in cargo volume (2) NPAT advances by 8.5% to VND 204 bn. 2013EPS is estimated at VND 5,101 while 2013BVPS would be VND 19,919. We forecastthat DVP will continue to enjoy meager but stable handling and logistics business with SITC and KMTC. 2014 would be another good year for the company with estimated revenue and PBT of VND 538bn (adding 4 %) and VND 231bn (adding 5.4%) respectively. 2014EPS comes to VND 5,377/share.
Investment view: Based on 1-yr target PER of 8.5x, 1-yr TGP for DVP arrives at VND 45,700/share. As DVP has no significant capex plansin 2014, we expect cash dividend for 2013 would be high( 20-30% cash dividend)  thanks to its high cash position. Investors should consider adding the stock at price weakness. Relatively, DVP always receives higher valuation in terms of PER and PBR in comparison with VSC or DXP. We think that investors have already taken into consideration DVP’s advantages of (1) larger capacity and (2) advantageous location of the port, ( 3) retained earnings from logistics JV with SITC.

Vietnam Container Shipping Corporation – Viconship (VSC: HOSE): Revise up 1Y TP to VND 68,600

As reported in our last report on VSC, VSC’s volume is expected to expand by 5-7% in 2013. However, as handling fee declined by 5% in 2013, and frozen containers’ revenue declined by VND 30bn in 2013, revenue is expected to remain flat in 2013. However, PBT is expected to reach VND 275bn, declining slightly by 4.6% YoY due to lower interest income resulted from lower interest rate.
In 2014, VSC sets conservative revenue and PBT targets of VND 750bn and VND 270 bn (1% lower than that in 2013)  based on continuous decline in handling fee (approximately 5% in 2014) and frozen containers’ revenue. However, we still expect revenue and PBT might increase by at least 7% and 3.4% YoY to VND 834bn and VND 286bn, respectively in 2014, resulting in EPS of VND 8,071 thanks to:
-     New CFS (area of 7,500 square meters) is expected to commence operation in Feb 2014. Together with the first CFS, logistics segment is expected to generate VND 30bn in PBT in 2014, counterbalancing the absence of frozen containers’ profit.
-     The volume is expected to continue to expand by at least 5-7% in 2014 thanks to increasing demand for import and export. Increase in volume will partially offset the impact from the decline in handling fee.
VSC will pay an additional 25% cash dividend for 2013 which will be decided in Fed 2014. For 2014, VSC maintain its target dividend of 30%. However, the dividend might be in cash or stock depending on its expansion plan in 2014. The company is going to expand its port operation to Dinh Vu area. If the company initiates the plan, it might opt to pay stock dividend.  In addition, this presents a prime opportunity for VSC to grow in the long term as the current port is running at full capacity and there is limited room for the company to grow unless it expands its port activities.
We revise up 1Y target price of VSC to VND 68,600/share, equivalent to 2014 PE of 8.5x, similar to DVP,   and reiterate our HOLD recommendation for the stock based on:
-     New CFS will help VSC grow in the coming year when the occupancy rate increases and expect to run at full capacity in 2015.
-     VSC maintains high dividend ratio. Stock dividend might be a catalyst for this illiquid stock
-     Ease in FOL will be a positive catalyst for the stock
-     Ambitious expansion plan promising long term growth
-     Long term profit contribution from associates, including DNL (37% ownership), PTSC Dinh Vu ( 23%), and potential investment in Danang Port ( 15%).

Những khuyến nghị "tâm huyết" với Thủ tướng


 Comment: Xin phép tác giả cho chữ "tâm huyết" vào ngoặc kép. Đúng là các chuyên gia trên trời. Những khuyến nghị chung chung thế này, một Sếp đã từng comment "DM mấy thằng chuyên gia, cứ hô hào đẩy mạnh bán hàng, giảm tồn kho nhưng đ... nói được giảm bằng cách nào"

http://vneconomy.vn/20140123044459726P0C9920/nhung-khuyen-nghi-tam-huyet-voi-thu-tuong.htm

“Cơ may” cho nền kinh tế và bản lĩnh người quyết định

Comment: Một bài viết có ý nhưng không nhiều số liệu support. Nếu thêm thông tin cụ thể về những lĩnh vực có lợi thế cần phát huy, bất lợi cần khắc phục thì ok hơn. bằng không thì cũng chỉ chung chung như các chính sách của CP. 
 

“Cơ may” theo nghĩa tình hình kinh tế xấu đến mức đủ để có thể gây áp lực thúc đẩy đổi mới thì còn xa, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và chính trị Thế giới, chuyên gia kinh tế Võ Đại Lược cùng VnEconomy nhìn lại dự báo của chính ông một năm trước.

Tuy nhiên, ông Võ Đại Lược cho rằng, đốm lửa cải cách thể chế cũng đã bắt đầu được nhen nhóm.

Nền kinh tế vẫn đang ở trạng thái cầm cự
Một năm trước ông đã nói ông không nhìn thấy điểm sáng rõ nét nào cho kinh tế 2013. Song, nếu tình hình xấu hơn thì có khi lại là “cơ may”. 2013 đã đi qua, và nhìn nhận của ông lúc này?

Nhận định tình hình kinh tế 2013 xấu đi thì tôi cho vẫn là đúng, mặc dù có một số số liệu được xem là tốt lên. Như lạm phát thấp, tỷ giá ổn định, xuất nhập khẩu tăng cao, thế nhưng chính ở những điểm sáng đấy cũng có vấn đề không sáng.

Ví dụ lạm phát thấp trên 6% là do tổng cầu đầu tư và tiêu dùng sụt giảm nghiêm trọng mặc dù một loạt giá hàng hóa độc quyền đều đã tăng cao. Hay xuất khẩu tăng khá tới 14,5% nhưng nhân vật chủ lực lại là đầu tư nước ngoài đến 61% và xuất siêu. Còn xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam tăng thấp chỉ có 3,5%, nhiều sản phẩm giảm về giá trị. Tỷ giá ổn định có vẻ tốt, nhưng đã đẩy giá VND cao hơn thực tế không có lợi cho sản xuất trong nước và xuất khẩu.

Doanh nghiệp FDI mạnh thế nhưng đóng góp cho Việt Nam thì ít thôi, vì hầu hết vẫn đang trong thời gian được hưởng chính sách ưu đãi. Điển hình như Samsung xuất đến 24 tỷ USD năm 2013 mà đóng thuế có 200 triệu VND.

Doanh nghiệp tư nhân trong nước vẫn“chết” đến 61 ngàn và đây là khối doanh nghiệp được ưu đãi ít nhất so với khối FDI và doanh nghiệp nhà nước. Nợ xấu đang gia tăng, phương án xử lý nợ xấu vẫn ngắc ngứ. Chưa nói khu vực doanh nghiệp nhà nước chưa có đổi mới tích cực gì cả, đụng đến đâu cũng có chuyện, thì khó nói nền kinh tế sáng sủa hơn.

Mặc dù vậy nền kinh tế vẫn đang ở trạng thái cầm cự chứ chưa xấu đến mức không đổi mới là chết, tức là chưa đủ để tạo ra thời cơ đổi mới.

Hơn nữa, như tôi đã nói trong câu chuyện của năm trước là gần đây tình thế có thêm cái phức tạp là các nhóm lợi ích chi phối rất mạnh, có thể cản trở đổi mới.

Vâng, ở bối cảnh đó ông cũng nhấn mạnh đến bản lĩnh của người ra những quyết định được xem là đổi mới. Vậy từ quan sát của người từng là thành viên ban nghiên cứu của Thủ tướng, ông có nhìn thấy tín hiệu nào cho thấy quyết tâm đổi mới của các yếu nhân trong năm 2014?

Bài viết đầu năm 2014  của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có nhiều quan điểm tích cực đối với các vấn đề kinh tế Việt Nam và tôi đánh giá cao. Nhưng từ phát biểu đến thực hiện còn rất xa, Thủ tướng muốn biến các quan điểm của mình thành hiện thực thì hoàn toàn không đơn giản, phải xây dựng luật rồi chỉ đạo thực hiện quyết liệt. Về điểm này trong những năm qua Chính phủ cũng tự phê bình là chậm.

Vậy vấn đề đặt ra là năm nay Chính phủ có làm được như mình nói không, và từ đó mới trả lời là tình hình có tốt lên được hay không. Nhìn lại những chuyện đang làm hỏng nền kinh tế thì nhiều chuyện xem ra chưa có giải pháp. Ví dụ như nợ xấu chưa giải quyết được, về nợ công thì đang vay nợ mới trả nợ cũ cũng chưa có giải pháp xử lý. Có thể giảm biên chế 30% không, có dám siết chặt chi tiêu công không, đó là những việc hoàn toàn không dễ trong cơ chế hiện nay.

Nhưng việc đổi mới cải cách thể chế kinh tế đang có tín hiệu tôi cho là tích cực.

Ngày 17/1 vừa qua, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã mời tôi và nhiều vị học giả, chuyên gia khác đến để tham vấn cho dự thảo đề cương nghiên cứu cải cách thể chế kinh tế. Tôi đánh giá rất cao việc làm này, bởi lâu lắm rồi tôi chưa thấy vị bộ trưởng nào, chưa nói đến cấp cao hơn trực tiếp nghe các học giả trình bày ý kiến của mình về tình hình đất nước.

Cách đây hai năm tôi đã làm chủ nhiệm chương trình nghiên cứu trọng điểm cấp Nhà nước về kinh tế, có đến 24 đề tài tiêu tốn đến dăm chục tỷ. Các ông chủ nhiệm đề tài đều ở các bộ cả và tôi có yêu cầu họ gặp bộ trưởng để trình bày kết quả nghiên cứu nhưng cũng chưa có vị bộ trưởng nào nghe cả.

Bản thân tôi cũng đã viết kiến nghị của chương trình về nhiều vấn đề liên quan đến nền kinh tế nhưng gửi đi rồi mà không biết có ai đọc không. Chắc chắn là rất nhiều kiến nghị của các học giả vẫn nằm trong tủ, nên tôi đánh giá cao ông Vinh đã dành cả hơn nửa ngày không nghỉ giải lao, ăn trưa tại chỗ để nghe ý kiến của chúng tôi.

Vấn đề là bản lĩnh của người ra quyết định

Vậy ông thấy những vấn đề mà Bộ trưởng Bùi Quang Vinh đang đầu tư tâm sức nhằm xây dựng được những kiến nghị đổi mới thể chế trình Đại hội 12 của Đảng về cải cách thể chế kinh tế có khả thi không?

Xem dự thảo chương trình nghiên cứu thì tôi rất đồng tình, nhất là có nội dung về chính sách thu hút và trọng dụng nhân tài. Vì cái gọi là thể chế và nhân tài tuy hai nhưng là một, bởi nếu anh không lựa chọn được những người có tài vào cơ quan quản trị quốc gia thì làm sao có thể chế tốt được, nên theo tôi việc quan trọng đầu tiên là tuyển chọn nhân tài.

Ở Việt Nam tôi đã từng phát biểu tại một số diễn đàn rồi, về việc chạy chức chạy quyền. Nếu đúng là người tài thì người ta không chạy vì người ta có lòng tự trọng, còn nếu đi mua chức thì kém tâm đức rồi, tâm đức không tốt thì làm sao khiến thể chế tốt được nữa.

Thế nên ông Vinh chọn vấn đề đúng rồi, song mấu chốt là kết quả nghiên cứu sẽ được cấp cao hơn ông ấy tiếp nhận thế nào, ông ấy có đủ sức tiếp cận và thuyết phục được cấp cao không. Vừa rồi họp ở Ban Kinh tế Trung ương chúng tôi cũng nêu quan điểm là Ban có tổ chức được cuộc đối thoại giữa các học giả với Tổng bí thư hay không mới quan trọng, chứ học giả nói với nhau thì cũng dễ nhất trí.

Tất nhiên, cũng có nhiều vấn đề các chuyên gia còn ý kiến khác nhau nhưng đó là chuyện bình thường. Vấn đề là bản lĩnh của người ra quyết định ở cấp cao nhất, nếu chỉ nghe ý kiến đa số thì bao giờ cũng như cũ, cái mới bao giờ cũng là thiểu số.

Bộ trưởng Bùi Quang Vinh cũng đã dự liệu rằng việc ông ấy đang chỉ đạo thực hiện có thể rất vất vả nhưng chưa chắc đã được tiếp thu. Song ông ấy nói không thể chần chừ hơn được nữa…


Đúng là rất khó nhưng tôi tin là ông ấy làm được. Vì ông ấy là con người tâm huyết, cầu thị, biết thể chế là vấn đề quan trọng và biết lắng nghe ý kiến chuyên gia. Với vị thế rất quan trọng của Bộ Kế hoạch và Đầu tư mà bản thân Bộ trưởng không thay đổi quan điểm phát triển thì khó lắm.

Nhưng tôi vẫn nói lại, tâm huyết chỉ là một chuyện, quan trọng là ông ấy phải thuyết phục được lãnh đạo cấp cao hơn. Ở buổi tham vấn đó thì đa số ý kiến đều thống nhất rất cao là muốn đổi mới thể chế kinh tế thì phải bắt đầu đổi mới từ tư duy phát triển. Vậy nên sau khi hoàn thành nghiên cứu với lộ trình và giải pháp khả thi thì ông Vinh phải thuyết phục được lãnh đạo cấp cao để quan điểm đổi mới được tiếp thu tại Đại hội 12.

Nên có thể sớm nhất là đầu năm 2016 thì “cơ may” mới đến, đó là một phương án khả quan. Nhưng cũng không loại trừ một số kết quả nghiên cứu do ông Vinh chỉ đạo được chấp nhận đưa vào thực tế sớm hơn để có cơ sở đưa vào nghị quyết Đại hội. Và đó cũng là “cơ may” cho đất nước. Thực tế từ khi đổi mới đến nay đã có nhiều ý tưởng từ “khoán hộ” đến “tự do hóa kinh tế”... đều đã được áp dụng trong thực tế rồi mới được đưa thành chính sách.

Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Một cái nhìn đa chiều về TPP


Comment: Bài viết của Thứ trưởng, Trưởng đoàn đàm phán TPP Việt Nam. Tuy nhiên, các thông tin về các ngành cụ thể còn rất chung chung

(DĐDN) - Tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (Hiệp định TPP) là cơ hội để Việt Nam hội nhập sâu hơn vào kinh tế thế giới. Nhân dịp Xuân Giáp Ngọ 2014, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài viết của ông Trần Quốc Khánh, Thứ trưởng Bộ Công Thương, Trưởng đoàn đàm phán TPP của Việt Nam.





Cuối năm 2005, các nước Brunei, Chile, New Zealand và Singapore ký một hiệp định thương mại tự do (FTA) với tên gọi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương, gọi tắt là Hiệp định TPP. Tháng 9/2008, Mỹ tuyên bố tham gia TPP, nhưng không phải “gia nhập” vào TPP cũ mà sẽ cùng các bên đàm phán một hiệp định FTA hoàn toàn mới, tuy nhiên, vẫn lấy tên gọi là Hiệp định TPP. Sau đó, Australia, Peru, Việt Nam, Malaysia, Canada, Mexico và Nhật Bản lần lượt tham gia vào TPP, đưa tổng số thành viên TPP hiện nay lên thành 12. Khởi động từ tháng 3/2010, đàm phán TPP đến nay đã trải qua 19 phiên chính thức và nhiều phiên giữa kỳ. TPP được kỳ vọng là mô hình mới về hợp tác kinh tế khu vực, tạo thuận lợi tối đa cho thương mại, đầu tư và nếu có thể sẽ trở thành hạt nhân để hình thành FTA chung cho toàn khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Cơ hội lớn về quan hệ thương mại
Việt Nam có vai trò quan trọng đối với các nước trong đàm phán TPP, bởi Việt Nam là quốc gia có thị trường đáng kể, có thể đem lại giá trị gia tăng tương đối lớn cho các nước tham gia đàm phán. Kể cả với Australia, Nhật Bản, Chile, New Zealand và Singapore – những nước đã có FTA với nước ta – việc Việt Nam vào TPP vẫn mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt là trong những lĩnh vực mà Việt Nam chưa có nhiều cam kết với họ, ví dụ như dịch vụ và đầu tư. Đối với Việt Nam, việc tham gia vào TPP có thể đem lại một số tác động tích cực như sau:
Đầu tiên, TPP sẽ giúp Việt Nam cân bằng được quan hệ thương mại với các khu vực thị trường trọng điểm, tránh phụ thuộc quá mức vào một khu vực thị trường nhất định. Số liệu thống kê cho thấy, khu vực Đông Á, bao gồm ASEAN, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật Bản và Hàn Quốc luôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam, thường xuyên ở mức trên 60%, nếu tính riêng nhập khẩu thì lên tới trên 75%. Với sự gần gũi về vị trí địa lý, việc Đông Á chiếm tỷ trọng lớn trong quan hệ thương mại với Việt Nam là việc khó tránh. Tuy nhiên, tỷ trọng trên là quá lớn, có thể tiềm ẩn rủi ro khi kinh tế Đông Á có biến động bất lợi. Đàm phán và ký kết FTA với một số thị trường trọng điểm như Mỹ, EU có thể giúp chúng ta khắc phục tình trạng mất cân đối này.
Thứ hai, quan hệ thương mại tự do với các thị trường lớn như Mỹ, Canada và việc Nhật Bản xóa bỏ thuế nhập khẩu cho hàng nông sản trong TPP, sẽ là cú hích thực sự cho xuất khẩu của Việt Nam. Theo tính toán của các doanh nghiệp, nếu thuế nhập khẩu được hạ về mức 0% thì hàng dệt may và giày dép Việt Nam sẽ đứng trước cơ hội lớn trong việc mở rộng thị phần trên thị trường các nước TPP, trong đó có thị trường Mỹ. Cơ hội cho các sản phẩm xuất khẩu chủ lực khác như thủy sản, đồ gỗ và nông sản cũng rất lớn.
Lợi ích thứ ba là cơ hội tiếp cận các thị trường rộng lớn gồm Mỹ, Nhật Bản, Canada với thuế nhập khẩu bằng 0%, kết hợp với các cam kết rõ ràng hơn về cải thiện môi trường đầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chắc chắn sẽ góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nhất là của các tập đoàn lớn. Nếu biết tận dụng thời cơ này, Việt Nam sẽ hưởng lợi lớn từ làn sóng đầu tư mới, tạo ra nhiều công ăn việc làm, hình thành năng lực sản xuất mới để tận dụng các cơ hội xuất khẩu và tham gia các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu do TPP đem lại.
Cuối cùng nhưng rất quan trọng, với các cam kết sâu và rộng hơn WTO, TPP sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam phân bổ lại nguồn lực theo hướng hiệu quả hơn, từ đó hỗ trợ tích cực cho quá trình tái cơ cấu và đổi mới mô hình tăng trưởng. Ngoài ra, do TPP hướng tới môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch hóa quy trình xây dựng chính sách và khuyến khích sự tham gia của công chúng vào quá trình này, cho nên sẽ có tác dụng rất tốt để hoàn thiện thể chế kinh tế cũng như tăng cường cải cách hành chính.
Thách thức lớn nhất: Sức ép cạnh tranh?
Bên cạnh các yếu tố tích cực đã nêu ở trên, việc tham gia vào TPP cũng tiềm ẩn một số thách thức, trong đó được nói tới nhiều nhất là sức ép cạnh tranh. Thách thức này xuất phát từ việc giảm thuế nhập khẩu về 0%, mở cửa thị trường dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ trong khuôn khổ TPP. Trong thực tế, thách thức về sức ép cạnh tranh do giảm thuế nhập khẩu về 0% là có nhưng không lớn, bởi trong số 11 đối tác TPP hiện tại, nước ta đã có quan hệ FTA với 7 nước, bao gồm: Brunei, Malaysia, Singapore, Australia, Chile, New Zealand, Nhật Bản. Trong tương lai gần, dù có tham gia hay không tham gia TPP, thuế nhập khẩu áp dụng cho hàng hóa của những nước này vẫn được hạ về 0%, nên tác động tăng thêm của việc tham gia vào TPP, nếu có cũng không lớn. Với những nước mà ta chưa có quan hệ FTA, gồm: Mỹ, Canada, Mexico và Peru thì hoặc là có cơ cấu xuất nhập khẩu mang tính bổ sung hơn là cạnh tranh với cơ cấu xuất nhập khẩu của ta (như Mỹ và Canada) hoặc là không có triển vọng thâm nhập thị trường Việt Nam với mức độ đủ lớn để gây ra sức ép cạnh tranh (như Peru, Mexico).
Nếu đi sâu phân tích cơ cấu xuất khẩu của các nước TPP, có thể thấy những ngành sản xuất của Việt Nam thực sự gặp khó khăn sẽ là ôtô, thịt lợn, thịt bò và đường. Các ngành bị tác động tương đối mạnh bao gồm thực phẩm chế biến, rượu và hóa phẩm tiêu dùng. Các mặt hàng vốn vẫn được bảo hộ cao như muối, lá thuốc lá, trứng gia cầm, thép, giấy… có thể không đáng ngại, lý do là các nước TPP hoặc không xuất khẩu hoặc hướng đến phân khúc thị trường khác so với sản xuất trong nước. Riêng với xăng dầu, nếu xóa bỏ thuế nhập khẩu Việt Nam sẽ mất đi một trong các công cụ điều hành giá quan trọng. Đây là tác động mà các cơ quan quản lý nhà nước sẽ phải tính đến một cách cẩn trọng. Trong lĩnh vực dịch vụ, cần nhớ rằng, sau 7 năm thực hiện cam kết gia nhập WTO, thị trường Việt Nam đã tương đối mở. Sức ép cạnh tranh từ TPP, nếu có sẽ xuất hiện ở ba ngành chính: ngân hàng, phân phối và phần nào đó là viễn thông giá trị gia tăng.
Trong lĩnh vực mua sắm chính phủ, tác động của việc mở cửa thị trường tuy có, nhưng ở mức chấp nhận được bởi với một số thiết kế đặc thù trong bản chào, việc mở cửa thị trường sẽ diễn ra từ từ, giúp các nhà thầu Việt Nam có thêm thời gian để làm quen với sức ép cạnh tranh. Một thách thức nữa cũng hay được nhắc tới, nhất là trong bối cảnh khó khăn của ngân sách nhà nước năm 2013, chính là rủi ro thất thu ngân sách. Giảm thuế nhập khẩu sẽ dẫn tới giảm thu ngân sách, nhưng tính toán của các chuyên gia cho thấy thách thức này không lớn và việc giảm thu từ thuế nhập khẩu, nếu có cũng sẽ được bù đắp từ các nguồn khác.
Tuy nhiên, có hai việc cần lưu ý ở đây. Thứ nhất, việc giảm thu sẽ diễn ra từ từ bởi Việt Nam sẽ giảm thuế nhập khẩu theo lộ trình. Thứ hai, khi Việt Nam giảm thuế nhập khẩu, hàng nhập từ Mỹ và các nước TPP có khả năng tăng lên và số thu từ thuế giá trị gia tăng (loại thuế không phải xóa bỏ trong các FTA), vì vậy cũng tăng lên. Thậm chí không loại trừ khả năng không những đủ bù đắp cho thuế nhập khẩu bị giảm mà còn tăng thu cho ngân sách nhà nước. Hiệu ứng này đã được kiểm định trên thực tế. Cụ thể, sau khi gia nhập WTO, dù ta giảm thuế nhập khẩu nhưng tổng thu từ hàng hóa nhập khẩu vẫn tăng đều qua các năm.
Tóm lại, đánh giá đầy đủ tác động của một hiệp định thương mại toàn diện, có mức độ cam kết sâu như Hiệp định TPP là việc khó và phức tạp. Những gì đã trình bày ở trên, vì vậy chỉ góp phần đưa ra một góc nhìn về cơ hội và thách thức của việc Việt Nam tham gia vào TPP.

Bài về ngành thép trên TBKTSG


Thứ Tư, 15 tháng 1, 2014

Dệt may Việt Nam - Cơ hội không chỉ là TPP



Dệt may, cơ hội không chỉ là TPP

        Nguồn: TBKTSG 
            
            Như vậy là Hội nghị Bộ trưởng các nước tham gia đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) tại Singapore đã kết thúc ngày 10/12 vừa qua mà không đạt được thỏa thuận. Hiệp định đã tốn nhiều giấy mực của giới truyền thông, mang lại nhiều hy vọng cho một động lực phát triển kinh tế mới đã không thể được hoàn tất trong năm 2013.
Theo Trưởng đoàn đàm phán của Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc Khánh thì bên cạnh các vấn đề phức tạp như sở hữu chí tuệ hay doanh nghiệp nhà nước thì lĩnh vực được nói đến nhiều nhất là các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa cũng không đạt được những tiến triển cần thiết.
Trước đó, nhiều kỳ vọng đã được đặt ra, đặc biệt là với một số hàng hóa xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như Da giày, Dệt may vốn đang bị đánh thuế cao khi xuất khẩu sang các thị trường lớn như Mỹ. Hiện nay, Mỹ đang chiếm 49% tổng kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt may và thuế suất nhập khẩu cho hàng dệt may Việt Nam đang là từ 17 - 20%.
            Câu hỏi đặt ra là liệu việc tiến trình đàm phán còn tiếp tục kéo dài có ảnh hưởng nhiều tới các lĩnh vực nói trên? Câu trả lời là có ảnh hưởng nhưng có thể không quá mạnh.
Nhiều đánh giá gần đây đã gắn liền sự tăng trưởng của ngành Dệt may với cơ hội TPP. Tuy nhiên, cũng có các phân tích cụ thể cho thấy để đáp ứng được các điều kiện cao như Yarn-forward mà Mỹ vẫn áp dụng trong các Hiệp định thương mại khác thì ngành Dệt may còn cần nhiều thời gian, tiền đầu tư và công sức của nhiều thành phần kinh tế. Hiện nay, đa số các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam là các công ty may gia công theo hình thức CMT (Cut, make and trim) cho các hãng nước ngoài. Tỷ trọng xuất khẩu của hình thức này chiếm khoảng 75% kim ngạch xuất khẩu của ngành. Như vậy, dù cho TPP có được ký kết trong thời gian sắp tới thì “quả ngọt” thuế suất 0% cho hàng dệt may Việt Nam vẫn còn cần tiếp tục được vun trồng chứ chưa “ăn” ngay được. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp Dệt may khi được hỏi có tích cực đầu tư chiều sâu để có thể đáp ứng các tiêu chuẩn cao hơn như yarn-forward thì câu trả lời khá bất ngờ là “Chưa” bởi họ vẫn đang hoạt động tốt với hình thức CMT, tức là nguyên liệu đầu vào và thị trường đầu ra đã có các hãng nước ngoài lo, doanh nghiệp Việt Nam chỉ cần cơ sở vật chất và nhân công là đủ. Còn TPP, có thì tốt nhưng không có thì hoạt động của Dệt may vẫn khả quan.
Điều này là hoàn toàn có lý khi nhìn lại sự tăng trưởng của ngành trong những năm qua. Có thể thấy đây là tác động tổng hợp của nhiều yếu tố trong đó có sự chuyển dịch khâu sản xuất trong chuỗi giá trị của ngành dệt may toàn cầu. Từ giữa thế kỷ 20 đến nay, đã có những đợt chuyển dịch lớn trong sản xuất dệt may toàn cầu. Những năm 50-60 là sự chuyển dịch từ Mỹ và Châu Âu sang Nhật Bản. Tiếp đó Hàn Quốc, Hồng Kông và Đài Loan tiếp tục đón nhận làn sóng này và trở thành 3 nước sản xuất dệt may hàng đầu trong những năm 70 và 80. Tiếp đến là sự gia nhập ngành của Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia vào những năm 80 và sau đó là các quốc gia như SriLanka, Bangladesh và Việt Nam từ giữa những năm 90 đến nay.
         Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng động lực chính của quá trình chuyển dịch này chủ yếu là sự phát triển của phân công lao động trong ngành trong đó khâu sản xuất cắt may là công đoạn cần nhiều nhân công ở trình độ thấp với chi phí rẻ. Các công đoạn khác như sản xuất nguyên liệu (vải, phụ kiện), thiết kế sản phẩm may mặc hay phân phối, bán hàng là các công đoạn mang lại giá trị gia tăng cao hơn nhưng lại đòi hỏi trình độ phát triển công nghệ, thị trường ở mức cao. Trong một báo cáo năm 2012 của Werner International, một đơn vị chuyên tư vấn trong ngành dệt may toàn cầu, Việt Nam vẫn là một trong những nước có chi phí nhân công dệt may rẻ nhất thế giới (khoảng 0,6 USD/giờ công) ngang hàng với Pakistan. Trong khi đó, chi phí này trung bình ở một số nước phát triển ở Châu Âu là khoảng 30 USD/giờ, các nước Đông Âu là khoảng hơn 6 USD/giờ, Hàn Quốc là trên 8 USD/giờ, Ấn Độ và Indonesia là khoảng trên 1,5 USD/giờ. Chi phí nhân công dệt may của Việt Nam có lẽ chỉ cao hơn các quốc gia cũng bắt đầu tham gia vào may gia công là Bangladesh và Campuchia. Tuy nhiên, so với Việt Nam thì 2 nước này lại ở một mặt bằng trình độ thấp hơn và do đó hiệu suất thấp hơn: họ thiếu nhân công lành nghề, cán bộ quản lý cấp trung, năng lượng không ổn định, cơ sở hạ tầng còn kém phát triển … Chính vì vậy, có lẽ Việt Nam vẫn sẽ là tâm điểm, là đích đến của nhiều hãng dệt may trên thế giới trong thời gian tới. Ngay cả khi chi phí lao động dệt may có tiếp tục tăng lên thì cũng còn một khoảng cách rất xa so với các nước đang phát triển ở Châu Âu chứ chưa nói đến các nước phát triển. Vấn đề đặt ra là Việt Nam cần duy trì những lợi thế so sánh của mình so với các nước kém phát triển để tiếp tục thu hút được thị phần dệt may xuất khẩu trong thị trường toàn cầu.
Do đó, hãy cứ vun trồng cho quả ngọt TPP nhưng quan trọng hơn, trong ngắn hạn, chỉ cần duy trì được những lợi thế đang có cũng đã là một thành công lớn cho ngành xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam này.

2014 – Xu thế nào cho cổ phiếu Ngân hàng



2014 – Xu thế nào cho cổ phiếu Ngân hàng 

Nguồn: TBKTSG            

Mới đây, Ủy ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN) đã làm việc với Ngân hàng nhà nước (NHNN) để có biện pháp phối hợp trong việc thúc đẩy các ngân hàng thương mại cổ phần đại chúng lên niêm yết. Có thể thấy, đây tiếp tục là một động thái chính sách mới trong hàng loạt các chính sách mà các cơ quan quản lý đã thực hiện trong năm qua nhằm cải thiện hoạt động của hệ thống tín dụng, vốn được xem như điểm nghẽn làm kìm hãm tăng trưởng của cả nền kinh tế.
            Liệu đây có phải là một động lực để giúp cho các cổ phiếu ngân hàng có một đợt sóng mới ngay trong năm 2014, hay những biện pháp dài hạn này sẽ còn cần thời gian để phát huy tác dụng? Hãy thử xác định vài yếu tố tác động để trả lời câu hỏi này.
            Diễn biến giá và khẩu vị đầu tư
Nhìn lại lịch sử, trong quá trình bùng nổ của Thị trường chứng khoán vào năm 2007, không khó để nhận thấy vai trò dẫn dắt của cổ phiếu ngân hàng. Tuy nhiên, trong khoảng 03 năm gần đây, diễn biến giá cổ phiếu ngân hàng đã không còn đóng vai trò dẫn dắt. Thậm chí, trong năm 2013, diễn biến nhóm cổ phiếu này còn “hụt hơi” so với nhiều nhóm cổ phiếu niêm yết khác.
Diễn biến giá cổ phiếu một số ngân hàng năm 2013

Đương nhiên, những thông tin tiêu cực như nợ xấu, rủi ro sở hữu chéo, vi phạm pháp luật trong hoạt động ngân hàng … là những nguyên nhân trực tiếp tác động đến diễn biến giá của cổ phiếu ngân hàng. Điều đáng bàn ở đây là trong những giai đoạn hồi phục, cổ phiếu ngân hàng lại có diễn biến giá kém tích cực so với mặt bằng chung. Sẽ khó có thể xác định được đâu là nguyên nhân chính nhưng rất có thể thực tế này xuất phát từ những yếu tố sau:
- Giai đoạn 2007-2010, các ngân hàng phải chạy đua tăng vốn để đảm bảo điều kiện vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ VNĐ và kéo theo những cơn sốt giá cổ phiếu. Sau giai đoạn này, nhìn chung nhu cầu tăng vốn của các ngân hàng không còn nhiều.
- Quy mô của mỗi ngân hàng đã được mở rộng nên lượng cổ phiếu có thể giao dịch thường xuyên trên thị trường (floating shares) cũng lớn hơn so với trước. Do đó việc diễn biến giá đi theo một chiều hướng là rất khó bởi những nhu cầu khác nhau của mỗi nhóm nhà đầu tư.
- Việc diễn biến giá của cổ phiếu ngân hàng có biên độ dao động hẹp cũng dần khiến cho các nhà đầu tư ngắn hạn, vốn chiếm đa số trên thị trường Việt Nam hiện nay, giảm bớt mức độ quan tâm.
Nếu các yếu tố trên thực sự là nguyên nhân làm giảm bớt độ hấp dẫn cho cổ phiếu ngân hàng thì có thể thấy chúng sẽ chưa thay đổi trong năm 2014, đặc biệt là kết quả kinh doanh, dù năm tới sẽ có nhiều chính sách mới đi vào thực tiễn.
Thông tư 02 dự kiến sẽ áp dụng vào tháng 6/2014:
Có thể xác định những tác động chính đối với hiệu quả hoạt động của Tổ chức tín dụng (TCTD) như sau:
- Nợ xấu sẽ phán ánh đúng hơn nhưng theo chiều hướng tăng. Các khoản tín dụng của một khách hàng vay vốn tại nhiều TCTD sẽ được phân loại theo kết quả phân loại nhóm nợ ở mức thấp nhất để thống nhất các kết quả đánh giá khác nhau giữa các TCTD đối với cùng 1 khách hàng. Hiện tại thì đa số các khách hàng đều vay vốn ở các TCTD khác nhau và chắc chắn quy định này sẽ khiến tỷ lệ nợ ở các nhóm thấp tăng lên đồng nghĩa với việc tỷ lệ trích lập dự phòng rui ro tín dụng tăng lên.     
- Đối tượng phải trích lập dự phòng mở rộng, tỷ lệ trích lập dự phòng cao hơn. Các loại Tài sản có phải trích lập dự phòng được mở rộng hơn (đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, thẻ tín dụng …) Bên cạnh đó, tỷ lệ khấu trừ tối đa đối với tài sản đảm bảo cũng được điều chỉnh theo hướng thận trọng hơn. Như vậy, điều này cũng khiến cho tỷ lệ trích lập dự phòng chung tăng lên.
Rõ ràng là khi áp dụng Thông tư 02, tỷ lệ nợ xấu, các khoản dự phòng rủi ro tăng sẽ tăng lên sẽ ảnh hưởng tới tới năng lực hoạt động của các TCTD trong tương lai.
Nới “room” cho nhà đầu tư nước ngoài
Hiện nay các cơ quan quản lý đã có dự thảo Nghị định mới thay thế Nghị định số 69/2007/NĐ-CP ngày 20 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng thương mại Việt Nam. Tuy nhiên, theo những nội dung dự thảo được công bố thì giới hạn sở hữu chung của nhà ĐTNN không đổi ở các ngân hàng. Trong trường hợp đặc biệt, để thực hiện cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, Thủ tướng Chính phủ sẽ quy định tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài và người có liên quan tại một tổ chức tín dụng cổ phần yếu kém được cơ cấu lại vượt quá giới hạn quy định (tức là vượt quá 30%). NHNN cũng đã trình Chính phủ Nghị định quy định về việc góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại các NHTM, trong đó có thể xem xét cho phép các nhà đầu tư nước ngoài đủ điều kiện được sở hữu trên 20% vốn điều lệ của các NHTM, thay vì chỉ được sở hữu 15% vốn điều lệ như hiện nay.
Những sửa đổi, quy định mới thể hiện trong dự thảo Nghị định chủ yếu tập trung vào nhóm cổ đông có chất lượng nhằm hỗ trợ các ngân hàng tiếp cận được nguồn vốn công nghệ, cách thức quản lý mới. Nó có thể tạo thêm sự hấp dẫn cho cổ phiếu ngân hàng nhưng có lẽ chưa đủ hấp dẫn bởi tỷ lệ sở hữu như vậy chưa đủ để một nhà đầu tư nước ngoài có được tiếng nói trong hoạt động điều hành của ngân hàng.
Các chính sách liên quan khác
Gần đây các cơ quan quản lý đang cân nhắc việc yêu cầu các ngân hàng thương mại cổ phần buộc phải niêm yết. Bước đi này sẽ góp phần tăng hiệu quả quản lý, giảm sát khi các ngân hàng sẽ phải minh bạch hơn trong thông tin. Đây là yếu tố tích cực cho các nhà đầu tư dài hạn quan tâm đến cổ phiếu ngân hàng. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, khi mà các thông tin về nợ xấu của ngân hàng, thực trạng sở hữu chéo còn chưa xác định rõ thì có lẽ việc minh bạch thông tin còn ảnh hưởng tiêu cực tới diễn biến giá cổ phiếu trong ngắn hạn.
Một tiến trình cũng được xúc tiến trong thời gian qua là yêu cầu các ngân hàng bán nợ xấu cho VAMC. Tuy nhiên, các ngân hàng vẫn trích dự phòng rủi ro 20%/năm trong vòng 5 năm phần nợ xấu bán sang VAMC và sau 5 năm ngân hàng phải thực hiện mua lại khoản nợ xấu. Vì vậy, thực chất đây chỉ là quá trình kéo dài thời gian xử lý nợ xấu nên không giúp cải thiện cho hoạt động của từng ngân hàng.
Như vậy, qua việc đánh giá các yếu tố về mặt cơ bản như trên, có thể thấy không có nhiều kỳ vọng vào động lực tăng giá của cổ phiếu ngân hàng khi hoạt động của các tổ chức tín dụng còn có thể xấu hơn trong thời gian tới.
Có lẽ, hy vọng cho nhóm cổ phiếu ngân hàng trong năm 2014 nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung vẫn là sự hồi phục chung của nền kinh tế. Vẫn biết thị trường chứng khoán luôn tiềm ẩn những diễn biến bất ngờ nhưng với những đánh giá từ cả góc độ kỹ thuật (diễn biến giá) và cơ bản (tiềm năng hoạt động) của các ngân hàng như trên, có lẽ, không nên kỳ vọng vào những đột biến vượt trội của cổ phiếu ngân hàng so với mặt bằng chung.